Phân loại thiên hướng tình dục
Về thiên hướng tình dục có thể chia ra thành:
- Dị tính luyến ái
- Đồng tính luyến ái
- Song tính luyến ái
- Toàn tính luyến ái
- Vô tính cũng có thể coi là một xu hướng tính dục
Dị tính luyến ái
Dị tính luyến ái (hay ái nam ái nữ) là chỉ sự hấp dẫn về tình cảm và tình dục với người khác giới. Dị tính luyến ái, đồng tính luyến ái, song tính luyến ái, toàn tính luyến ái và vô tính luyến ái là năm xu hướng tính dục chính. Đa phần mọi người trên thế giới thường là dị tính luyến ái, chỉ một tỉ lệ nhỏ thuộc các thiên hướng tình dục khác. Trong tiếng Anh, từ straight để chỉ người dị tính, gay chỉ người đồng tính nam (hoặc người đồng tính nói chung) và lesbian chỉ người đồng tính nữ.
Thụ tinh trong quan hệ tình dục dị tính luyến ái là cách sinh sản duy nhất của loài người mà không cần sự trợ giúp của kỹ thuật sinh sản nào. Sự luyến ái và tình yêu lãng mạn giữa nam và nữ có từ việc phân biệt vai trò nam nữ từ rất xa xưa. Vai trò giới cũng là chủ đề bàn luận và nghiên cứu trong xã hội loài người trong những tài liệu cổ xưa nhất. Dị tính luyến ái được nghiên cứu nhiều trong ngành dược, sinh học và gần đây nhất là tâm lý học.
Đồng tính luyến ái
Đồng tính luyến ái, còn gọi tắt là đồng tính, là sự hấp dẫn tình yêu, hấp dẫn tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. Với vai trò là một thiên hướng tình dục, đồng tính luyến ái là “một mô hình lâu dài thể hiện sự hấp dẫn về cảm xúc, tình yêu, và/hoặc tình dục” đối với những người cùng giới tính. Nó “cũng chỉ cảm giác về bản dạng của một người dựa trên những điểm hấp dẫn, những hành vi liên quan, và sự tham gia vào một cộng đồng những người khác có chung những điểm hấp dẫn đó.”
Cùng với dị tính luyến ái và song tính luyến ái, đồng tính luyến ai là ba dạng chủ yếu của thiên hướng tình dục con người, thuộc thang liên tục dị tính - đồng tính (Thang Kinsey). Các nhà khoa học không rõ nguyên nhân chính xác của xu hướng tính dục, nhưng họ đưa ra giả thuyết rằng đó là do sự tác động qua lại phức tạp của các nhân tố di truyền, nội tiết tố và ảnh hưởng từ môi trường xã hội, và không coi đó là một lựa chọn cá nhân. Dù chưa có lý thuyết nào về nguyên nhân của xu hướng tính dục nhận được sự ủng hộ rộng rãi, các nhà khoa học nghiêng về phía các lý thuyết dựa trên cả nguyên nhân sinh học và sự ảnh hưởng từ xã hội, đặc biệt là đối với nam giới. Một số người cho rằng hoạt động tình dục đồng giới là trái với tự nhiên, nhưng giới tâm lý học coi đồng tính luyến ái là một dạng biến thể trong tính dục của con người. Chưa có đủ bằng chứng khẳng định việc sử dụng các biện pháp can thiệp tâm lý có thể làm thay đổi xu hướng tính dục.
Thuật ngữ phổ biến nhất cho người đồng tính luyến ái là “người đồng tính nữ” hoặc “lét” cho nữ giới (bắt nguồn từ tiếng Anh "lesbian" /ˈlezbiən/ và thường được viết phỏng theo tiếng Anh là “les”) và “người đồng tính nam” hoặc “gay” cho nam giới (bắt nguồn từ từ tiếng Anh “gay” /ɡeɪ/), nhưng “gay” cũng thường được dùng để chỉ cả người đồng tính nam và nữ. Rất khó để ước tính chính xác tỷ lệ người đồng tính nam hoặc nữ và tỷ lệ những người có quan hệ tình cảm đồng giới hoặc đã có trải nghiệm tình dục đồng giới vì nhiều lý do, bao gồm việc nhiều người đồng tính không công khai do định kiến hoặc do phân biệt đối xử[16]. Nhiều người đồng tính đã hoặc đang sống trong một mối quan hệ gắn kết, mặc dù phải đến những năm 2010, các hình thức điều tra dân số và thuận lợi chính trị mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc họ được biết đến nhiều hơn và được thống kê chính thức.
Đồng tính luyến ái đã từng được ủng hộ cũng như lên án trong suốt quá trình phát triển nhân loại được lịch sử ghi lại, tùy thuộc vào hình thức của nó và nền văn hóa mà nó diễn ra. Từ cuối thế kỷ XX đã có một phong trào trên phạm vi toàn cầu theo xu hướng tăng khả năng bộc lộ, công khai thiên hướng tình dục bản thân ở người đồng tính, công nhận các quyền lợi về nhân thân, quyền nhận con nuôi và làm cha mẹ, các quyền liên quan đến việc làm, phục vụ trong quân đội, tiếp cận bình đẳng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chống bắt giữ/tra tấn và sự ra đời của luật chống bắt nạt để bảo vệ trẻ vị thành niên đồng tính.
Ngoài những người đồng tính bẩm sinh, còn có những người có hành vi đồng tính nhưng không phải do bẩm sinh mà là do ảnh hưởng từ môi trường xã hội, bạn bè, sách truyện, phim ảnh... Một số thuật ngữ chỉ xu hướng này có thể là "đồng tính giả" hay "đồng tính tâm lý".
Song tính luyến ái
Song tính luyến ái (tiếng Anh: Bisexuality) là mối quan hệ hay chỉ sự hấp dẫn tình cảm và/hoặc tình dục của một người với hai giới tính, nam và nữ, hoặc là nhiều hơn một giới hay giới tính. Đây cũng được định nghĩa là sự thu hút tình cảm hay tình dục đối với người của bất kì bản dạng giới hay giới tính nào, cũng được biết đến với tên toàn tính luyến ái.
Thuật ngữ Song tính/Song tính luyến ái được sử dụng chính trong trường hợp biểu lộ sự hấp dẫn của con người về tình cảm hay tình dục, hướng đến cả đàn ông và phụ nữ. Đồng thời khái niệm này là một trong ba phân loại chính của xu hướng tính dục, đi cùng với dị tính/dị tính luyến ái và đồng tính/đồng tính luyến ái, tất cả tồn tại trong phổ dị tính - đồng tính. Một bản dạng song tính không nhất thiết phải cân bằng sự hấp dẫn tình dục với cả hai giới tính; thường thì, những người có sở thích tình dục nghiêng về một giới tính nhất định hơn giới tính còn lại nhưng lại không độc nhất cũng tự nhận họ là người song tính.
Các nhà khoa học không biết chính xác nguyên nhân vì sao xu hướng tính dục tồn tại, nhưng họ đặt ra giả thuyết rằng nó được hình thành bởi sự tương hỗ phức tạp của ảnh hưởng di truyền, nội tiết tố và môi trường, đồng thời không xem nó như là một sự lựa chọn. Mặc dù không có một lý thuyết nào cho biết nguyên nhân xu hướng tính dục ngày càng được ủng hộ rộng rãi, các nhà khoa học vẫn ủng hộ những thuyết dựa trên sinh học. Có nhiều bằng chứng ủng hộ các nguyên nhân sinh học và phi xã hội của xu hướng tính dục hơn là những nguyên nhân xã hội, đặc biệt là đối với nam giới.
Song tính luyến ái đã được thấy trong các xã hội khác nhau và trong thế giới loài vật thông qua các tài liệu lịch sử. Tuy nhiên, các thuật ngữ bisexual (song tính luyến ái), heterosexual (dị tính luyến ái) và homosexual (đồng tính luyến ái) chỉ mới được sử dụng từ thế kỷ 19.
Toàn tính luyến ái
Toàn tính luyến ái (tiếng Anh: Pansexuality và Omnisexuality) là chỉ sự hấp dẫn tình dục và/hoặc tình cảm với bất kể giới và giới tính nào.
Những người toàn tính (pansexual) có thể xem bản thân họ như là người mù giới, khẳng định rằng giới và giới tính không phải là yếu tố quyết định sự hấp dẫn tình cảm và tình dục của họ đối với những người khác.
Toàn tính là một xu hướng tính dục độc lập hoặc là một nhánh của song tính. Người toàn tính có được sự hấp dẫn với mọi người, cả nam, nữ lẫn những người phi nhị nguyên giới. Tính dục toàn giới hoàn toàn phủ nhận hệ nhị phân giới. Đây cũng thường được xem là một xu hướng tính dục bao quát hơn tính dục song giới. Mức độ bao quát của thuật ngữ "song tính" khi so với thuật ngữ "toàn tính" vẫn còn gây tranh cãi trong cộng đồng LGBT nói chung và cộng đồng người song tính nói riêng.
Vô tính luyến ái
Vô tính luyến ái (tiếng Anh: Asexuality) là sự không bị hấp dẫn tình dục, hoặc không hay ít quan tâm đến các hoạt động tình dục. Nó có thể được xem là sự không có, hoặc là một trong những xu hướng tính dục, bên cạnh dị tính, đồng tính, song tính và toàn tính. Đây cũng có thể là một thuật ngữ rộng hơn để chỉ một loạt các loại hình vô tính khác nhau. Một nghiên cứu năm 2004 cho thấy tỉ lệ người vô tính trong dân số Anh là 1%.
Vô tính khác với kiêng tình dục và sống độc thân ở chỗ cả hai dạng sau đều thuộc về hành vi và đến từ quan điểm cá nhân hay tôn giáo, trong khi vô tính là một thiên hướng tình dục và có khuynh hướng lâu dài hoặc vĩnh viễn. Một số người vô tính vẫn có hoạt động tình dục mặc dù thiếu ham muốn cũng như hấp dẫn tình dục bởi vì họ muốn làm thỏa mãn đối tác, để làm cho mình dễ chịu, để sinh con, hoặc vì một số lý do nào khác.
Sự chấp nhận vô tính như là một thiên hướng tình dục và là một lĩnh vực của nghiên cứu khoa học vẫn còn khá mới, bởi những nghiên cứu về mặt xã hội cũng như tâm lý học về chuyện này mới chỉ mới bắt đầu. Trong khi một vài nhà nghiên cứu khẳng định đây là một thiên hướng tình dục, số khác lại không xem như vậy.
Với đà phát triển của Internet và mạng xã hội, nhiều cộng đồng vô tính khác nhau đã được hình thành. Nổi tiếng nhất và đông đảo hơn cả là Asexual Visibility and Education Network (AVEN), thành lập năm 2001 bởi David Jay.
Theo: Mai Quốc Vĩnh (ST)
Liên hệ: Thầy Mai Quốc Vĩnh
Đông y sĩ - Đông dược sĩ - Khí công sư
(Thiên Long Đường)
Hotline/Zalo: 0916286199 - 0929996199
Website: www.maiquocvinh.com
Xem thêm